Chương 3: Cuộc hẹn thứ nhất, hai

Thứ Sáu, 23/9/1977 (Henry 36 tuổi, Clare 6 tuổi)

HENRY: Tôi đang ở trong đồng cỏ, chờ đợi. Tôi đợi ngoài rìa khoảng rừng thưa, trần truồng, vì quần áo Clare để cho tôi trong cái hộp bên dưới tảng đá không có ở đó; cái hộp cũng không, dù vậy tôi rất cảm kích đây là một buổi trưa đẹp trời, có lẽ tháng Chín, của một năm chưa xác định. Tôi đang ngồi chồm hổm trong đám cỏ cao, suy nghĩ. Cái hộp không có ở đây có nghĩa rằng tôi đã du hành đến khoảng thời gian trước khi Clare và tôi gặp mặt. Cũng có thể Clare còn chưa ra đời. Việc này đã xảy ra trước đây, và nó thực sự không dễ chịu chút nào; tôi nhớ Clare và tôi đã dành thời gian lẩn trốn, trên người không một mảnh vải, trong đống cỏ, không dám bén mảng xuất hiện gần gia đình Clare. Tôi khao khát nhìn về phía cây táo ở mạn rìa tây của đồng cỏ. Vào mùa này hẳn nó đã ra trái, những quả nhỏ và chua đã bị nai gặm dở, nhưng vẫn có thể ăn. Tôi nghe thấy tiếng cửa đóng sầm; tôi ló đầu ra khỏi đám cỏ nhìn. Một đứa bé đang chạy như bay ra ngoài, và khi nó đến gần con đường cỏ dập dềnh, trái tim tôi nhéo lại - Clare đang băng băng tiến vào khoảng rừng thưa.

Cô ấy còn rất nhỏ, chưa biết gì và chỉ có một mình. Clare vẫn đang mặc đồng phục của trường, áo liền quần màu xanh lá với chiếc áo choàng trắng, tất dài quá gối và đi giày da, tay cầm túi mua đồ Marshall Field và chiếc khăn dùng khi đi biển. Cô ấy trải chiếc khăn xuống đất rồi bắt đầu lôi đồ từ trong túi ra: đủ mọi loại bút có thể hình dung. Bút bi cũ, bút chì nhỏ ngắn và dày của thư viện, bút màu và bút mực. Cô ấy còn mang theo cả đống những đồ dùng văn phòng của bố. Clare sắp xếp đồ đạc ngay ngắn rồi vuốt ve xấp giấy, bắt đầu thử từng loại bút, cẩn thận gạch từng dòng, từng xoắn ốc và lẩm nhẩm một mình. Sau khi cẩn thận lắng nghe một lúc, tôi nhận ra cô ấy đang hát theo điệu nhạc của “The Dick Van Dyke Show”.

Tôi ngần ngại. Clare đang mải mê chăm chú. Cô ấy chắc hẳn mới chừng sáu tuổi; nếu đây đang là tháng Chín, thì chắc hẳn cô ấy vừa vào lớp một. Clare rõ ràng đang không đợi tôi, tôi là một người lạ mặt, và tôi chắc rằng điều đầu tiên bạn được học ở lớp một là không được lại gần một người lạ trần truồng xuất hiện ở nơi bí mật yêu thích của mình, lại còn biết tên bạn và bảo bạn đừng kể cho bố mẹ biết. Tôi tự hỏi liệu hôm nay có phải ngày đầu tiên chúng tôi gặp mặt hay đó là một ngày khác. Có lẽ tôi nên im lặng; hoặc Clare sẽ đi nơi khác rồi tôi có thể gặm nhấm những quả táo chua lè và ăn trộm vài món quần áo, hoặc tôi sẽ tan biến, trở lại với hoạt động thường ngày đang dang dở của mình. Tôi ngắt ra khỏi sự mơ màng và thấy Clare đang nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi nhận ra, mặc dù quá muộn, rằng tôi đang lẩm nhẩm hát theo cô ấy.

“Ai ở đó?” Clare nói rít lên. Cô ấy trông như một con ngỗng đang xù lông giận giữ. Tôi nghĩ nhanh.

“Xin chào, cư dân địa cầu” tôi nhẹ nhàng ngân nga.

“Mark! Anh là đồ đần độn!” Clare nhìn quanh tìm vật gì đó để ném, rồi quyết định dùng đôi giày nặng nề có gót nhọn của mình. Cô ấy tháo chúng ra và ném. Tôi không nghĩ cô ấy có thể thấy tôi, nhưng cô ấy gặp may, một trong hai chiếc giày phi trúng miệng. Tôi bắt đầu chảy máu.

“Làm ơn đừng làm vậy.” Tôi không có thứ gì có thể dùng để cầm máu, nên đã dí chặt tay vào môi, và vì thế giọng tôi trở nên ồ ề. Cằm tôi nhói đau.

“Ai đấy?” Giờ thì Clare hoảng sợ, tôi cũng vậy.

“Henry. Clare, chú là Henry. Chú sẽ không làm gì cháu, nên đừng ném chú nữa nhé.”

“Trả giày lại cho tôi. Tôi không biết ông. Tại sao ông lại trốn?” Clare nhìn tôi chằm chằm.

Tôi ném trả đôi giày trở lại khoảng rừng thưa. Cô ấy nhặt chúng lên và ôm khư khư lấy chúng như thể đang cầm một khẩu súng ngắn. “Chú lẩn trốn vì đã đánh mất quần áo và chú lấy làm xấu hổ. Chú đã phải đi rất xa nên đói lả. Chú lại không quen biết ai, và giờ thì đang chảy máu nữa.”

“Ông từ đâu đến? Tại sao ông biết tên tôi?”

Chỉ có sự thật, không gì hơn. “Chú đến từ tương lai. Chú là người du hành thời gian. Trong tương lai, chúng ta là bạn.”

“Người du hành thời gian chỉ có trong phim thôi.”

“Đó là điều bọn chú muốn các cháu tin”

“Tại sao?”

“Nếu ai cũng du hành thời gian thì sẽ rất chật chội. Như khi cháu đi thăm bà nội Abshire vào Giáng Sinh năm ngoái và cháu phải đi qua sân bay O’Hare vậy, rất đông đúc phải không? Nhà du hành thời gian như bọn chú không muốn làm mọi chuyện rắc rối, nên bọn chú đã giữ im lặng.”

Clare suy nghĩ một phút. “Bước ra đây.”

“Cho chú mượn cái khăn tắm nhé.” Cô ấy nhặt nó lên và tất cả bút chì, bút vẽ cùng giấy bay tứ tán. Clare ném chiếc khăn về phía tôi, tôi đưa tay ra chụp lấy và quay lưng về phía Clare trong khi đứng dậy quấn nó quanh hông. Chiếc khăn có màu hồng và cam với những đường hoa văn hình học to rõ. Đích thị là thứ bạn muốn mặc trong lần đầu gặp vợ tương lai. Tôi quay người lại và bước vào khoảng rừng thưa; tôi ngồi xuống một tảng đá trong tư thế đạo mạo hết mức có thể. Clare đứng trong khu đất, giữ khoảng cách - vẫn nắm chặt đôi giày trên tay.

“Ông đang chảy máu.”

“Phải rồi. Cháu ném giày vào chú mà.”

“Ồ.”

Im lặng. Tôi cố tỏ ra vô hại và tử tế. Sự tử tế rất được Clare trân trọng, vì trong tuổi thơ của cô ấy, nhiều người không hề tử tế chút nào.

“Ông đang giễu cợt tôi.”

“Chú không đời nào làm vậy. Tại sao cháu lại nghĩ chú đang giễu cợt cháu?”

Clare sẽ chẳng còn gì đặc biệt nếu không cứng đầu. “Chẳng có ai du hành thời gian cả. Ông đang nói dối.”

“Santa du hành.”

“Cái gì?”

“Dĩ nhiên rồi. Thế cháu nghĩ làm sao ông ấy có thể chuyển hết đống quà đó chỉ trong một đêm? Ông ấy không ngừng quay ngược thời gian tới một vài giờ đồng hồ trước cho đến khi chui xuống ống khói của tất cả mọi người.”

“Santa có phép siêu nhiên. Ông đâu phải Santa.”

“Ý cháu là chú không có phép siêu nhiên? Trời, Louise, cháu thật là một khách hàng khó tính.”

“Tên tôi không phải là Louise.”

“Chú biết. Cháu là Clare. Clare Anne Abshire, sinh ngày 24 tháng Năm, 1971. Bố mẹ cháu là Philip và Lucille Abshire, cháu sống cùng họ và bà ngoại, anh trai Mark và em gái Alicia trong nhà lớn đằng kia.”

“Chỉ vì ông biết chuyện này chuyện kia không có nghĩa ông đến từ tương lai.”

“Nếu cháu nán lại một chút, cháu sẽ thấy ta biến mất” tôi có cảm giác mình có thể hi vọng vào chuyện này, vì Clare đã từng nói rằng, đó là điều cô ấy ấn tượng hơn tất thảy trong lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt.

Im lặng. Clare đổi tư thế đứng từ chân này sang chân kia và đuổi muỗi. “Ông có quen Santa không?”

“Không.” Máu đã ngừng chảy, nhưng chắc hẳn trông tôi vẫn thật khủng khiếp. “Này, Clare, cháu có tình cờ mang theo chiếc băng cá nhân nào không? Và thức ăn nữa? Du hành thời gian khiến chú rất đói.”

Cô ấy suy nghĩ một chút rồi đút tay vào túi áo len, lôi ra thanh Hershey đã cắn dở. Cô ấy ném nó về phía tôi.

“Cảm ơn cháu. Chú rất thích món này.” Tôi ăn ngấu nghiến nhưng vẫn lịch sự. Lượng đường trong máu tôi rất thấp. Tôi nhét giấy gói vào túi mua đồ của Clare. Cô ấy tỏ vẻ vui mừng.

“Ông ăn như một con chó.”

“Đâu có!” Tôi bị xúc phạm ghê gớm. “Chú có ngón tay cái có thể chụm lại đấy.”

“Ngón cái có thể chụm lại là gì?”

“Hãy làm thế này.” Tôi làm dấu OK. Clare làm theo. “Ngón cái có thể chụm lại nghĩa là cháu có thể làm thế. Nghĩa là cháu có thể mở nắp hộp và thắt dây giày, cùng những việc khác mà động vật không thể làm.”

Clare tỏ vẻ không hài lòng. “Sơ Carmelita nói động vật không có linh hồn.”

“Dĩ nhiên động vật có linh hồn. Ai bảo cô ấy như vậy?”

“Sơ nói Giáo Hoàng bảo vậy.”

“Giáo Hoàng là một ông già khó tính. Động vật có linh hồn hiền lương hơn chúng ta rất nhiều. Chúng không bao giờ nói dối hay cho nổ bom thổi bay ai cả.”

“Chúng ăn thịt lẫn nhau.”

“Ừ thì chúng phải ăn thịt lẫn nhau; chúng không thể đi đến Dairy Queen và gọi món kem ốc quế rải sô-cô-la được, phải không?” Đây là món ăn ưa thích nhất trần đời của Clare (khi còn là một đứa trẻ. Lớn lên, Clare thích sushi, đặc biệt là sushi ở Katsu trên đại lộ Peterson).

“Chúng có thể ăn cỏ.”

“Chúng ta cũng có thể, nhưng chúng ta đâu có ăn. Chúng ta ăn hamburger.”

Clare ngồi xuống. “Etta nói tôi không nên nói chuyện với người lạ.”

“Đó là một lời khuyên tốt.”

Im lặng.

“Khi nào ông sẽ biến mất?”

“Khi chú sẵn sàng. Cháu chán nói chuyện với chú rồi hả?” Clare đảo mắt nhìn quanh. “Cháu đang viết gì vậy?”

“Thư pháp.”

“Chú xem được không?”

Clare thận trọng đứng dậy và nhặt một vài mẩu giấy trong khi vẫn không ngừng nhìn tôi chằm chằm đe dọa. Tôi chậm rãi nhoài người về phía trước đưa tay ra như thể cô ấy là một loài chó hung dữ. Clare nhanh chóng đẩy mạnh những tờ giấy về phía tôi rồi lùi lại. Tôi nhìn chúng chăm chú như thể cô ấy vừa đưa cho tôi những bản vẽ đầu tiên của Bruce Rogers về con Nhân Mã hay cuốn sách của Kells. Cô ấy đã viết nhiều dòng chữ in hoa khổ lớn “Clare Anne Abshire”. Tất cả các nét trên và dưới của các chữ đều được nắn nót thành những vòng xoáy trang trí và tất cả các nét tròn đều được vẽ thêm những mặt cười bên trong. Chúng khá đẹp.

“Đáng yêu lắm.”

Clare tỏ vẻ hài lòng, như cô ấy vẫn thường vậy mỗi khi nhận được lời khen cho thành quả của mình. “Tôi có thể viết cho ông một bản.”

“Chú muốn lắm. Nhưng chú không được phép mang theo bất cứ thứ gì mỗi khi du hành thời gian, nên có thể cháu hãy cứ giữ lấy và chú sẽ thưởng thức nó mỗi khi chú ở đây.”

“Tại sao ông không thể mang theo thứ gì?”

“Cháu nghĩ mà xem. Nếu những người du hành thời gian như chú có thể di chuyển đồ vật theo dòng thời gian thì thế giới sẽ sớm trở thành một đống hỗn độn. Giả dụ như nếu chú mang theo tiền bên mình và quay trở về quá khứ, chú có thể tìm mua vé số độc đắc, cá cược bóng đá và kiếm cả triệu đô. Việc đó không công bằng, phải không? Hoặc nếu chú là người cực kì bất lương, chú có thể trộm đồ và mang chúng về tương lai, nơi không ai có thể tìm thấy chú.”

“Chú có thể làm hải tặc!” Clare tỏ vẻ hớn hở trước ý nghĩ về tôi như một hải tặc đến nỗi cô ấy quên rằng tôi là một người lạ mặt nguy hiểm. “Chú có thể chôn tiền và vẽ bản đồ kho báu rồi đào nó trong tương lai.” Thực ra đây gần như chính là cách để tôi và Clare có được cuộc sống thoải mái. Clare cho rằng việc đó thật trái đạo lí, cho dù nó giúp chúng tôi không ít trên thị trường chứng khoán.

“Đó là một ý tưởng tuyệt vời. Nhưng thứ chú cần không phải tiền, mà là quần áo.”

Clare nhìn tôi ngờ vực.

“Bố cháu có món quần áo nào mà ông ấy không dùng đến không? Chỉ một cái quần cũng đủ rồi. Ý chú là, chú thích cái khăn này, nhưng ở nơi chú đến, chú thường mặc quần.” Philip Abshire lùn hơn tôi một chút nhưng nặng hơn khoảng 30 pound. Quần của ông ấy khá hài hước nhưng thoải mái.

“Cháu không biết...”

“Không sao. Cháu không cần phải lấy chúng ngay bây giờ. Nhưng nếu lần sau cháu có thể mang theo thì chú sẽ rất cảm kích.”

“Lần sau?”

Tôi tìm thấy một mẩu giấy chưa dùng và một cây bút chì. Tôi nghệch ngoạc viết ra dòng chữ: thứ Năm, ngày 29 tháng 9 năm 1977, sau bữa tối. Tôi đưa nó cho Clare và cô ấy nhận lấy trong cảnh giác. Quang cảnh xung quanh tôi mờ dần. Tôi có thể nghe thấy tiếng Etta gọi Clare. “Đây là một bí mật, được chứ, Clare?”

“Tại sao?”

“Chú không thể nói được. Chú phải đi rồi. Rất vui được gặp cháu. Bắt tay thế nào.” Tôi chìa tay ra và Clare can đảm nắm lấy. Trong lúc đang bắt tay, tôi biến mất.

Thứ Tư, 9/2/2000 (Clare 28 tuổi, Henry 36 tuổi)

CLARE: Sáu giờ sáng, tôi đang mơ màng trong giấc ngủ chập chờn thì Henry đổ ầm lên tôi, tôi nhận ra anh ấy đã lại du hành thời gian. Anh ấy đột ngột hiện ra và nằm đè lên tôi, tôi hét toáng lên, cả hai đều hoảng hồn. Henry bắt đầu cười rồi quay người lại, tôi cũng quay về phía anh ấy và nhận ra miệng anh ấy đang chảy máu. Tôi bật dậy, chạy đi lấy khăn mặt. Khi tôi trở lại, Henry vẫn mỉm cười, miệng be bét máu.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Em ném giầy vào mặt anh.” Tôi không nhớ đã ném bất cứ thứ gì vào Henry.

“Đâu có.”

“Em có. Đấy là lần đầu tiên chúng ta gặp mặt, ngay khi vừa nhìn thấy anh, em đã nói, ‘Đây là người đàn ông con sẽ lấy làm chồng’, rồi em ném giày vào mặt anh. Anh luôn nói em có con mắt nhìn người mà.”

Thứ Năm, 29/9/1977 (Clare 6 tuổi, Henry 35 tuổi)

CLARE: Tờ lịch trên bàn của bố buổi sáng nay trùng với ngày tháng trong tờ giấy mà người đàn ông đó đã viết. Nell đang luộc trứng cho Alicia, còn Etta đang mắng Mark vì đã không làm bài tập mà bỏ đi chơi ném đĩa với Steve. Tôi hỏi Etta, Cháu có thể xin vài bộ quần áo để trong hòm được không? Tôi muốn nói đến những chiếc hòm trên gác mái nơi chúng tôi hay chơi hóa trang, Etta hỏi Để làm gì? Tôi trả lời, Cháu muốn chơi hóa trang với Megan. Etta nổi cáu và bảo Đã đến giờ đi học, cháu có thể nghĩ đến chuyện chơi đùa sau khi tan trường. Vậy nên tôi đi học và làm phép tính cộng, quan sát ấu trùng rồi lên lớp nghệ thuật ngôn ngữ, sau bữa ăn là giờ học tiếng Pháp, âm nhạc và tôn giáo. Cả ngày tôi chỉ lo lắng về chuyện tìm quần áo cho người đàn ông lạ mặt, vì ông ấy có vẻ rất muốn có nó. Khi về nhà, tôi hỏi Etta một lần nữa, nhưng bà đã vào thị trấn. Nell để tôi liếm cả que quấy bột làm bánh lẫn số bột còn thừa, Etta chẳng bao giờ cho chúng tôi làm vậy. Mẹ đang viết gì đó. Tôi định bỏ đi mà không chào mẹ, nhưng bà đã kịp nói, Có chuyện gì vậy, con yêu? nên tôi hỏi xin và bà nói tôi có thể tìm trong túi đồ từ thiện Goodwill và lấy bất cứ thứ gì tôi muốn. Tôi đi xuống phòng giặt đồ, tìm trong túi Goodwill và thấy ba cái quần của bố, một cái có lỗ thủng lớn do thuốc lá. Tôi chọn hai cái lành lặn và chiếc áo sơ mi trắng bố hay mặc đi làm, với chiếc cà vạt có hoa văn cá và áo len đỏ. Cả chiếc áo choàng tắm màu vàng bố hay mặc khi tôi còn nhỏ, nó có mùi của bố. Tôi nhét tất cả quần áo vào một cái túi rồi đặt trong tủ phòng khách. Khi vừa bước ra khỏi phòng, Mark nhìn thấy tôi và hỏi, Mày đang làm cái gì thế, đồ đần độn? Tôi trả treo, Chẳng làm gì cả, đồ đần độn! Mark kéo tóc tôi, còn tôi đạp mạnh vào chân khiến anh ấy khóc toáng lên và chạy đi mách lẻo. Tôi về phòng mình chơi trò Truyền hình với ngài Gấu và Jane. Jane là ngôi sao điện ảnh, còn ngài Gấu hỏi Jane cảm giác làm ngôi sao điện ảnh như thế nào. Jane nói cô ấy rất muốn trở thành bác sĩ thú y, nhưng vì quá xinh đẹp nên cô ấy phải trở thành ngôi sao điện ảnh. Ngài Gấu nói sau này về già Jane có thể trở thành bác sĩ thú y. Etta gõ cửa và hỏi, Tại sao cháu giẫm lên chân Mark? và tôi trả lời, Ai bảo anh ấy giật tóc cháu. Etta cằn nhằn, Cô cậu làm tôi bực mình lắm rồi nhé và bỏ đi. Chúng tôi ăn tối một mình với Etta vì bố mẹ đi dự tiệc. Hôm nay có món gà rán với đậu nhỏ và bánh sô-cô-la. Mark được chia phần lớn hơn, nhưng tôi chẳng tị nạnh vì đã được liếm bột trước đó. Sau bữa tối, tôi xin Etta ra ngoài chơi. Bà hỏi tôi có bài tập về nhà không, tôi trả lời, Có bài tập chính tả và thu thập lá cây cho lớp mỹ thuật. Bà đồng ý cho tôi đi, Miễn sao cháu trở về trước khi trời tối. Tôi chạy đi lấy áo len xanh có vằn, lấy túi, rồi ra ngoài khoảng rừng thưa. Người đàn ông lạ mặt ấy vẫn chưa xuất hiện. Tôi ngồi xuống tảng đá, đợi một lúc rồi quyết định đi tìm lá cây. Tôi quay trở lại khu vườn và nhặt lá từ cái cây nhỏ của mẹ, mà về sau bà bảo tôi là cây bạch quả, và một số lá từ cây phong và cây sồi. Khi tôi quay trở lại đồng cỏ, ông ta vẫn không có ở đó. Tôi đã nghĩ, Có lẽ ông ta chỉ bịa chuyện sẽ đến. Rốt cuộc thì ông ta chẳng muốn có quần áo đến mức ấy. Có lẽ Ruth nói đúng. Tôi đã kể cho cậu ấy nghe về ông ta và cậu ấy nói tôi bịa chuyện, vì ngoài đời chẳng ai có thể đột nhiên biến mất cả, chỉ có trên ti vi thôi. Hoặc có thể đó là một giấc mơ giống như khi Buster chết, tôi đã mơ nó vẫn khỏe mạnh và nằm yên trong lồng, nhưng khi tôi tỉnh dậy không thấy Buster đâu cả, mẹ đã nói, Giấc mơ khác với cuộc sống thực tế nhưng nó cũng rất quan trọng. Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh và tự nhủ có lẽ tôi nên bỏ túi đồ lại, nếu người đàn ông đó đến, ông ta có thể lấy quần áo trong đấy. Đang bước ngược trở lại con đường vào nhà thì tôi nghe có tiếng động và ai đó nói, Ôi, chết tiệt, đau quá. Tôi sợ.

HENRY: Tôi ngã phịch xuống một tảng đá khi xuất hiện và bị trầy đầu gối. Tôi đang ở trong khoảng rừng thưa. Mặt trời đẹp rực rỡ một màu cam và đỏ trên đầu những ngọn cây như tranh của J.M.W. Turner. Đồng cỏ trống trải chẳng có gì ngoài chiếc túi mua sắm đầy quần áo. Ngay lập tức tôi đoán ra Clare đã để chúng lại. Chắc hẳn chỉ mới vài ngày sau lần gặp đầu tiên của chúng tôi. Không thấy bóng dáng Clare đâu cả, tôi cất tiếng gọi khẽ. Không hồi đáp. Tôi lục túi quần áo. Có một chiếc quần may bằng vải bông thô, một chiếc quần len tuyệt đẹp màu nâu, một chiếc cà vạt xấu xí có hình cá hồi gớm giếc, áo len Harvard, áo sơ mi trắng vải sần cáu bẩn ở cổ, vết mồ hôi xỉn lại bên dưới cánh tay và chiếc áo choàng tắm bằng lụa được may tinh tế thêu tên Philip có một miếng rách lớn ở túi. Tất cả là đồ cũ trừ chiếc cà vạt, tôi rất mừng khi được thấy chúng. Tôi mặc chiếc quần vải bông thô và áo len, thầm cảm tạ vì gu thẩm mỹ di truyền của Clare. Tôi thấy rất thoải mái, ngoại trừ việc thiếu một đôi giày thì tôi đã ăn vận khá gọn ghẽ cho vị thế hiện tại của mình trong dòng thời gian. “Cảm ơn Clare, cháu làm tốt lắm”, tôi gọi khẽ.

Tôi ngạc nhiên khi thấy cô ấy xuất hiện ở lối vào khoảng rừng thưa. Trời tối nhanh khiến Clare trông nhỏ bé và sợ hãi trong ánh sáng nhá nhem.

“Xin chào.”

“Xin chào, Clare. Cảm ơn cháu về bộ quần áo. Chúng rất tuyệt, chúng sẽ giữ ấm cho chú đêm nay.”

“Cháu sắp phải về rồi.”

“Không sao, trời cũng sắp tối rồi. Mai cháu phải đi học đúng không?”

“Phải.”

“Hôm nay là ngày bao nhiêu?”

“Thứ Năm, 29 tháng 9, năm 1977.”

“Rất hữu ích. Cảm ơn cháu.”

“Làm thế nào mà chú lại không biết điều đó?”

“Chú chỉ vừa mới đến nơi. Vài phút trước đang là thứ Hai, ngày 27 tháng Ba, năm 2000. Đó là một buổi sáng trời mưa ướt át; chú đang nướng bánh mì.”

“Nhưng chú đã viết ra cho cháu mà.” Cô ấy chìa mảnh giấy viết thư của văn phòng luật Philip. Tôi lại gần và cầm lấy nó, cảm thấy thích thú khi nhìn dòng chữ hoa được viết nắn nót của tôi. Tôi ngập ngừng tìm cách tốt nhất để giải thích tính bất định của việc du hành thời gian cho Clare nhỏ bé lúc này.

“Cháu biết dùng máy ghi băng phải không?”

“Dạ.”

“Vậy cháu cho băng vào và bật từ đầu đến cuối, đúng không?” “Phải.”

“Cuộc đời của cháu cũng vậy. Cháu thức dậy vào buổi sáng, cháu dùng điểm tâm và đánh răng rồi đến trường. Cháu không thức dậy và đột nhiên thấy mình đang ăn trưa ở trường với Helen và Ruth, rồi đột nhiên lại ở nhà và đang mặc quần áo đúng không?”

Clare cười khúc khích. “Đúng ạ.”

“Với chú thì khác. Là người du hành thời gian, chú nhảy quanh từ thời điểm này đến thời điểm khác. Giống như khi cháu bật cuộn băng và nghe một lúc rồi cháu nói, Ồ mình muốn nghe lại ca khúc đó một lần nữa, thế là cháu nghe bài hát đó và trở lại lúc cháu bỏ giữa chừng, nhưng cháu tua đoạn băng quá tay nên phải tua trở lại một lần nữa, nhưng vẫn quá tay. Cháu hiểu không ?”

“ Hơi hơi ạ.”

“Đó không phải là phép so sánh tuyệt nhất. Cơ bản thì, đôi khi chú bị lạc trong dòng thời gian và không biết mình đang ở thời điểm nào.”

“Phép so sánh là gì ?"

“Là khi cháu muốn giải thích một việc nào đó bằng cách so sánh nó với một việc khác. Ví dụ như, vào lúc này, chú ấm như một con bọ nằm trong chăn trong chiếc áo len đẹp đẽ này, và cháu xinh như một bức tranh, còn Etta sẽ phát điên phát cuồng nếu cháu không trở vào nhà sớm.”

“Chú sẽ ngủ ngoài này à? Chú có thể vào nhà cháu, nhà cháu có phòng khách đấy.”

“Cháu thật tốt bụng. Nhưng rất tiếc, chú không được phép gặp gia đình cháu trước năm 1991.”

Clare hoàn toàn bối rối. Tôi nghĩ một phần vì cô ấy không thể hình dung nổi ngày tháng vượt ra khỏi những năm 70. Tôi vẫn nhớ mình đã gặp khó khăn y hệt với những năm 60 khi tôi ở độ tuổi của cô ấy lúc này. “Tại sao không?”

“Đó là một phần của luật lệ. Những người du hành thời gian không được phép đi loanh quanh và nói chuyện với mọi người trong khi du hành, vì như vậy sẽ có thể khiến mọi việc trở nên lộn xộn.” Thực ra tôi không tin vào điều này; mọi việc diễn ra theo cách nó đã định, một lần và chỉ một. Tôi không phải căn nguyên dẫn đến sự phân cắt thế giới.

“Nhưng chú nói chuyện với cháu đấy thôi.”

“Cháu là trường hợp đặc biệt. Cháu dũng cảm, thông minh và rất giỏi giữ bí mật."

Clare ngượng ngịu. “Cháu đã kể cho Ruth. Nhưng bạn ấy không tin cháu.”

“Ồ, không sao cả. Cũng chẳng có mấy ai tin chú. Nhất là các bác sĩ. Bác sĩ không tin bất cứ điều gì trừ phi chúng ta chứng minh cho họ thấy.”

“Cháu tin chú.”

Clare đang đứng cách tôi chừng hơn một mét. Khuôn mặt xanh xao nhỏ nhắn của cô ấy hứng trọn tia nắng đỏ au cuối cùng từ trời tây. Tóc cô ấy buộc chặt phía sau thành đuôi ngựa. Cô ấy đang mặc quần jean xanh, áo len tối màu có xọc vằn chạy quanh ngực, hai tay nắm chặt. Cô ấy trông mãnh liệt và kiên định. Con gái của chúng tôi, tiếc thay, chắc hẳn trông cũng sẽ giống hệt như vậy.

“Cảm ơn cháu, Clare.”

“Cháu phải về đây.”

“Ý tưởng không tồi.”

“Chú sẽ quay trở lại chứ?”

Tôi lục tìm danh sách, trong trí nhớ. “Chú sẽ trở lại vào 16 tháng Mười, hôm đó sẽ là thứ Sáu. Ngay sau khi tan trường, cháu hãy ra đây. Nhớ mang theo cuốn nhật kí nhỏ màu xanh mà Megan tặng cháu vào ngày sinh nhật và một chiếc bút bi mực xanh.” Tôi nhắc lại ngày tháng, nhìn thẳng vào Clare để chắc rằng cô ấy đã ghi nhớ.

“Au revoir, Clare.” (Tạm biệt, Clare)

“Aurevoir...” (Tạm biệt...)

“Henry.”

“Au revoir, Henri.” (Tạm biệt chú Henry). Chưa gì cô ấy đã phát âm giỏi hơn tôi. Clare quay người và chạy dọc theo con đường trở về vòng tay của ngôi nhà ấm áp, niềm nở, còn tôi quay về phía bóng tối và bắt đầu đi dọc đồng cỏ. Một lát sau trong buổi tối hôm đó, tôi quẳng chiếc cà vạt vào thùng rác phía sau Dina's Fish 'n Fry.