Chương 17

“Tôi sẽra ngoài.”

Françoise đangbận rộn với việc may vá, ngước lên nhìn tôi. Ba mươi giây sau Pierre đangleo lên các bậc thang. Nếu Matthew có ở nhà, khôngnghi ngờ gì anhcũng sẽxuất hiện, nhưng anhđãđikiểm tra công việc kinh doanh bí ẩnnào đó trong thành phố. Tôi thức dậy thìthấy bộ đồ ướt đẫm của anhvẫn đanghong cạnh lò sưởi. anhbị gọi đitrong đêm và trở về, để rồi lại rời đimộtlần nữa.

“thậtsao?” Hai mắt Françoise nheo lại. côta đãnghi ngờ tôi có gì đó lạ lẫm kể từ lúc tôi mặc váy áo. Thay vì cằn nhằn về số áo váy lót côấy chòng qua đầu mình, hôm nay tôi lại còn mặc thêm mộtchiếc váy fannel xám ra bên ngoài. Sau khi tranh cãi về việc tôi nên mặc chiếc váy dài nào. Tôi thích những bộ quần áo thoải mái dễ chịu mang về từ Pháp hơn những bộ váy áo lộng lẫy của Louisa de Clermont. Chị gáiMatthew, với mái tóc đen và làn da như men sứ, có thể diện chiếc váy nhung màu ngọc lam rực rỡ (“màu xanh đồng”, Françoise đãchỉnh lại cho tôi) hoặc chất vải bóng như lụa màu xanh xám ốm yếu (được gọi mộtcách thích hợp là “Người Tây Ban Nha đangchết”), nhưng với làn da cháy nắng có tàn nhang cùng những lọn tóc màu vàng hoe đỏ của tôi thìtrông chúng thậtphát khiếp, mà những bộ váy ấy cũng quá phô trương để mặc điquanh thành phố.

“Có lẽ madame nên đợi ông chủ Roydon trở về,” Pierre gợi ý. anhta thấp thỏm khôngyên đổi hết chân này sang chân kia.

“không, tôi khôngnghĩ vậy. Tôi đãlên mộtdanh sách những thứ cần dùng, và tôi muốn tự đimua sắm.” Tôi khum tay nâng cái túi da đựng tiền mà Philippe cho. “Mang mộtcái túi đilà được, hay tôi nên nhét tiền vào thân áo và moi ra khi cần thiết nhỉ?” Khía cạnh này trong các tác phẩm hư cấu lịch sử luôn cuốn hút tôi – phụ nữ nhét đồ của họ vào trong váy áo – và tôi đangmong ngóng khám phá xem liệu các món đồ đó có dễ dàng cởi ra ở nơi công cộng như các tiểu thuyết gia gợi ý không. Ở thế kỷ mười sáu này, chuyện tình dục chắc chẳng dễ gì diễn ra được như trong mấy chuyện lãng mạn. Cởi hết được đống quần áo này trênngười thìcũng còn lâu mới đến đích.

“Madame sẽkhôngmang theo tiền bạc gì cả!” Françoise chỉ sang Pierre, anhta đãtháo sợi dây buộc chiếc túi ngang thắt lưng ra. Nó có vẻ như khôngđáy và là nơi cất giữ đáng kể lượng dụng cụ có đầu nhọn, bao gồm đinh ghim, kim, thứ gì đó trông giống như dụng cụ mở khóa, và mộtcon dao găm. Khi chiếc túi da của tôi đãđược thu vào trong đó, nó kêu xủng xoảng theo từng chuyển động nhỏnhất của anhta.

Ngoài Hẻm Water, tôi sải bước với đôi giày đitrong bùn (những cái nêm bằng gỗ được lồng vào giày giúp tránh giẫm trực tiếp xuống rác bẩn) cùng mộtquyết tâm thậtlớn hướng về phía nhà thờ Thánh Paul. Đường viền lông thú trênáo khoác cuốn quanh chân tôi, lớp vải dày của nó cản bớt sương mù dai dẳng. Chúng tôi đangtận hưởng khoảng thời gian ân xá tạm thời sau trận mưa như trút nước mới đây, nhưng thời tiết vẫn khôngcó cách nào khô ráo cả.

Điểm dừng chân đầu tiên là ở tiệm bánh của ông chủ Prior để mua bánh sữa phủ quả lý chua và mứt quả. Tôi thường thấy đói vào chiều muộn và muốn ăn thứ gì đó ngọt ngọt. Điểm viếng thăm kế tiếp là gần con ngõ nối Blackfriars với phần còn lại của London, tại mộtcửa hàng in ấn bận rộn nổi bật với biển hiệu hình mỏ neo.

“Chào buổi sáng, bà Roydon,” ông chủ cất tiếng ngay khi tôi bước qua bậu cửa. Thực ra hàng xóm đều biết về tôi mà khôngcần giới thiệu. “Bà đến đây để lấy sách cho chồng mình phải không?”

Tôi tự tin gật đầu dù chẳng biết ông ta đangnóivề quyển sách nào, ông chủ lôi ra mộtquyển sách mỏng nằm trêngiá cao. Giở lướt qua các trang thìthấy nó nóivề quân sựvà đạn đạo học.

“Tôi tiếc là khôngkiếm được bản in cuốn y học cho bà,” ông ta nóitrong khi bọc món đồ Matthew mua. “Khi nào bà có thể từ bỏ ý định tìm nó, tôi sẽtự tay đóng mộtcuốn phù hợp với yêucầu của bà.”

Vậy đây là nơi xuất xứ của những bản tóm lược về bệnh tật và phương pháp chữa bệnh mà tôi đọc. “Cảm ơn, ông…” Giọng tôi ngập ngừng trượt dài.

“Field,” ông ta nhắc.

“Ông chủ Field,” tôi lặp lại. mộtphụ nữ trẻ ánh mắt sáng ngời cùng với đứa con cắp bên hông đira khỏi phòng làm việc phía sau cửa hiệu, mộtđứa bé mới chập chững tập đibám dính lấy váy côta. Các ngón tay côta thô ráp và nhuộm đầy mực.

“Bà Roydon, đây là vợ tôi, Jacqueline.”

“A. Bà Roydon.” Trọng âmcủa người phụ nữ này hơi lơ lớ tiếng Pháp và khiến tôi nhớ đến Ysabeau. “Chồng bà đãkể với chúng tôi rằng bà là mộtđộc giả tuyệt vời, và Margaret Hawley nóibà nghiên cứu giả kim thuật.”

Jacqueline và chồng côta biết khá nhiều về công việc của tôi đây. Chắc họ cũng biết cả cỡ giày và kiểu bánh thịt tôi thích ăn nữa. Thế cho nên, chuyện này thậm chí khiến tôi càng thấy kỳ quái hơn, vì rằng khôngai ở Blackfriars có vẻ nhận ra tôi là phù thủy.

“Vâng, đúng thế,” tôi đáp, vuốt thẳng đường may trênđôi găng tay. “Các vị có bán giấy bản không, ông chủ Field?”

“Dĩ nhiên là có,” Field đáp kèm theo cái nhíu mày bối rối. “Bà đãviết hết cuốn sổ với mấy chuyện vặt vãnh rồi sao?” A! Ông ta cũng là nguồn cung cho cuốn sổ ghi chép của tôi nữa đây.

“Tôi yêucầu giấy để viết thư cơ,” tôi giải thích. “Xi gắn thư. Và mộtcon dấu riêng. Tôi có thể mua chúng ở đây không?” Cửa hiệu sách ở Yale có tất cả các đồ văn phòng phẩm, bút mực, giấy dán màu sắc tươi sáng, cả những cục xi gắn kèm theo những con dấu bằng đồng rẻ tiền để in hình lên các bức thư. Field và vợ trao đổi ánh mắt với nhau.

“Tôi sẽgửi thêm giấy đến vào chiều nay,” ông ta nói. “Nhưng bà sẽmuốn thợ kim hoàn làm con dấu riêng để gắn nó liền với mộtchiếc nhẫn. Tất cả những gì tôi có ở đây là những con chữ hỏng từ xưởng in đangđợi để làm tan chảy và đem đúc lại.”

“Hoặc bà có thể gặp Nicholas Vallin,” Jacqueline gợi ý. “Ông ấy chuyên về kim loại, thưa bà Roydon, và cũng làm khóa tốt lắm.”

“Xuôi theo con hẻm này ư?” Tôi hỏi, chỉ qua vai mình.

“Ông ấy khôngphải thợ kim hoàn,” Field phản đối. “Chúng ta khôngmuốn gây phiền phức cho ông Vallin.”

Jacqueline vẫn bình thản. “Có nhiều lợi ích khi sống ở Blackfriars này, Richard. Làm việc khôngcần theo quy định của phường hội là mộttrong số đó. Hơn nữa, Công ty Thợ kim hoàn sẽchẳng rầy rà ai ở đây chỉ vì mộtthứ chẳng quan trọng như là nhẫn đàn bà. Nếu bà muốn có xi gắn, bà Roydon, bà cần phải đitới chỗ nhà bào chế thuốc.”

Xà bông cũng có trong danh sách mua bán của tôi. Và các hiệu bào chế thuốc sử dụng các máy chưng cất. Mặc dù sựchú ý quan tâm của tôi đangchuyển từ giả kim thuật sang phép thuật, nhưng vẫn khôngcần bỏ qua cơ hội học hỏi thêm điều hữu ích.

“Hiệu bào chế thuốc gần nhất ở đâu?”

Pierre hắng giọng. “Có lẽ bà nên tham khảo bàn bạc với ông chủ Roydon đã.”

Matthew sẽcó tất cả các loại ý kiến, hầu hết trong đó sẽlà cử Françoise hay Pierre đikiếm về thứ tôi yêucầu. Người nhà Field đangchờ đợi câu trả lời với vẻ quan tâm hứng thú.

“Có lẽ,” tôi đáp, nhìn chằm chằm vào Pierre phẫn nộ. “Nhưng tôi cũng thích lời gợi ý của bà chủ Field.”

“John Hester rất được kính trọng,” Jacqueline nóithoáng vẻ ranh mãnh, kéo đứa nhỏđangchập chững đira khỏi cái váy của mình. “Ông ấy đãcho mộtít cồn thuốc phiện vào tai con trai tôi để chữa chứng đau tai cho nó.” John Hester, nếu đúng như trí nhớ của tôi, cũng quan tâm tới thuật giả kim. Có lẽ ông ta biết mộtphù thủy nào đó. Thậm chí may mắn hơn, ông ta có thể là mộtphù thủy, thích hợp với các dự định thực tế của tôi. Hôm nay tôi khôngchỉ đơn giản đimua sắm khôngthôi đâu. Tôi đira ngoài để được nhìn thấy. Phù thủy là mộtđám hiếu kỳ. Nếu tôi đưa bản thân ra làm mồi nhử, sẽcó kẻ cắn câu.

“Người ta nóirằng ngay cả Nữ bá tước Pembroke cũng tìm kiếm lời khuyên từ ông ấy để chữa chứng đau nửa đầu của đức ngài trẻ tuổi,” chồng côta nóithêm. Vậy là tất tần tật hàng xóm láng giềng cũng đều biết tôi đãđến lâu đài Baynard. Mary đãđúng: Chúng tôi đangbị theo dõi. “Cửa hàng của ông chủ Hester gần bến thuyền Paul, biển hiệu là mộtcái vạc.”

“Cảm ơn, bà chủ Field.” Bến thuyền Paul chắc hẳn phải gần sân nhà thờ Thánh Paul, và tôi có thể đến đó buổi chiều. Tôi nhẩm lại trong đầu bản đồ dạo chơi ngày hôm nay.

Sau khi chào từ biệt, Françoise và Pierre rẽ xuôi theo con hẻm hướng về nhà.

“Tôi sẽđến nhà thờ,” tôi nói, hướng về phía ngược lại.

khôngthể nào, Pierre đãđứng trước mặt tôi rồi. “Milord sẽkhôngvui đâu.”

“Milord khôngcó ở đây. Matthew đãđể lại những chỉ thị nghiêm khắc rằng tôi khôngđược đitới đó mà khôngcó anhđicùng. anhấy khôngbảo tôi là mộttù nhân trong chính ngôi nhà của mình.” Tôi giúi cuốn sách và mấy cái bánh sữa cho Françoise. “Nếu Matthew trở về trước tôi, hãy nóianhấy biết chúng tôi đangở đâu và rằng tôi sẽtrở về nhanh thôi.”

Françoise đón lấy gói đồ, nhìn Pierre hồi lâu rồi bắt đầu đixuôi Hẻm Water.

“Prenez garde, madame,64” Pierre lầm bầm khi tôi điqua anhta.

“Tôi luôn luôn thận trọng mà,” tôi điềm tĩnh đáp lời, bước thẳng vào mộtvũng nước đọng.

Hai chiếc xe ngựa đâm nhau làm tắc nghẽn cả con đường dẫn tới nhà thờ Thánh Paul. Các phương tiện di chuyển kềnh càng lại gắn thêm thùng xe và chẳng có gì giống với những chiếc xe ngựa va chạm trong mấy bộ phim về Jane Austen cả. Tôi đivòng qua chúng cùng Pierre theo sát gót, di chuyển lách qua những con ngựa đangbực bội và những người chủ xe cũng bực bội khôngkém, mấy người này đứng giữa đường mà quát tháo cãi cọ ai là người có lỗi. Chỉ có người đánh xe là dường như chẳng quan tâm, họ còn đangkhe khẽ tán chuyện với nhau từ chỗ ngồi cao phía trêncuộc cãi cọ.

“Chuyện này có thường xảy ra không?” Tôi hỏi Pierre, kéo mũ choàng ra sau để có thể trông thấy anhta.

“Mấy loại xe cộ mới này thậtlà phiền toái,” anhta cáu kỉnh nói. “đibộ hoặc cưỡi ngựa vẫn tốt hơn nhiều. Nhưng đấy khôngphải vấn đề. Họ sẽkhôngbao giờ hiểu được đâu.”

Đó là điều bọn họ nóivới Henry Ford, tôi thầm nghĩ.

“Bến thuyền Paul còn bao xa?”

“Milord khôngthích John Hester.”

“Đó khôngphải điều tôi hỏi, Pierre.”

“Madame muốn mua gì ở sân nhà thờ?” Kỹ thuật đánh trống lảng của của Pierre đãquá quen thuộc với tôi từ những năm đầu còn đihọc. Nhưng tôi khôngđịnh nóicho bất kỳ ai biết lý do thậtsựkhiến chúng tôi đangbăng qua cả thành phố London thế này.

“Sách,” tôi đáp gọn lỏn.

Chúng tôi bước vào khu vực cấm xe cộ của nhà thờ Thánh Paul, nơi mỗi centimet khôngbị giấy che phủ đãbị những người bán đồ ăn và phục vụ chiếm dụng. mộtngười đàn ông trung niên tử tế ngồi trênghế đẩu, bên trong chỗ để đóng dấu, nơi này được xây lên dựa vào bức tường nhà thờ. Môi trường văn phòng làm việc kiểu này hoàn toàn bình thường với nơi đây. Đám người lộn xộn đangtúm tụm xung quanh quầy làm việc của ông ta. Nếu tôi may mắn, thìở trong số đó sẽcó mộtphù thủy.

Tôi tìm đường đixuyên qua đám đông ấy. Tất cả bọn họ dường như đều là con người. thậtthất vọng làm sao!

Người đàn ông ngẩng mặt lên từ mộtvăn bản mà ông ta cẩn thận sao chép lại cho vị khách đangđứng đợi và giật mình. mộtcông chứng viên. Làm ơn, đừng để người này là William Shakespeare, tôi thầm cầu nguyện.

“Tôi có thể giúp gì được cho bà, bà Roydon?” Ông ta nóibằng trọng âmPháp. khôngphải Shakespeare. Nhưng làm sao ông ta biết tôi là ai?

“Ông có xi gắn thư không? Và mực đỏ nữa?”

“Tôi khôngphải người bào chế, bà Roydon, mà là mộtthầy giáo nghèo.” Các vị khách bắt đầu xì xào về những vụ kiếm lời tai tiếng của người bán tạp hóa, mấy tên bào chế dược và những kẻ tham nhũng ăn chặn người khác.

“Bà Field nóivới tôi rằng John Hester làm ra những loại xi gắn tuyệt vời.” Những cái đầu đồng loạt quay về phía tôi.

“Dù vậy khá đắt đấy. Mực của ông ấy cũng thế, làm từ hoa diên vĩ đấy.” Lời đánh giá của người đàn ông được khẳng định bằng hàng loạt tiếng rì rầm tán thành từ đám đông.

“Các vị có thể chỉ hướng cửa hàng của ông ấy cho tôi được không?”

Pierre tóm lấy khuỷu tay tôi. “không,” anhta rít lên bên tai tôi. Khi hành động này chỉ càng thu hút sựchú ý về phía chúng tôi nhiều hơn, anhta vội vàng buông ra.

Bàn tay người công chứng viên nâng lên, chỉ về phía đông. “Bà sẽtìm thấy ông ấy ở bến thuyền Paul. đitới Đầu Bishop rồi rẽ về phía nam. Nhưng ông Cornu biết đường đấy.”

Tôi liếc mắt nhìn lại Pierre, người đangdán mắt chằm chằm nhìn vào mộtđiểm nào đó phía trênđầu tôi. “Ông ta ư? Cảm ơn ông.”

“Đó là vợ của Matthew Roydon à?” Ai đó nóicùng với tiếng cười nén lại khi chúng tôi bước ra khỏi đám người. “Mon dieu. Thảo nào anhta trông thậtkiệt quệ.”

Tôi khôngvội đivề hướng hiệu bào chế dược. Thay vào đó, với đôi mắt gắn chặt vào ngôi nhà thờ, tôi bắt đầu chậm rãi quan sát kích thước khổng lồ của nó. Nó duyên dáng mộtcách đáng kinh ngạc, căn cứ theo kích thước thìnhững tia sét khôngmay mắn đó đãphá hủy diện mạo của nó vĩnh viễn.

“Đây khôngphải con đường nhanh nhất để tới Đầu Bishop.” Pierre cách sau lưng tôi có mộtbước chân thay vì ba bước như bình thường và thế là đâm sầm ngay lúc tôi dừng bước để ngẩng đầu lên nhìn.

“Tháp nhọn kia cao bao nhiêu vậy?”

“Cao gần bằng tòa nhà này. Milord luôn bị hấp dẫn bởi cách bọn họ xây dựng nó cao được đến mức ấy.” Ngọn tháp nhọn chắc hẳn đãlàm cho cả tòa nhà cao vút, cùng với đỉnh tháp lộng lẫy làm nổi bật những đường nét trang trí của trụ tường và các khung cửa sổ cao lớn theo phong cách Gothic.

Tôi cảm thấy rõmộtluồng năng lượng trào lên gợi nhớ tới ngôi đền thờ nữ thần gần Sept–Tours. Nằm sâu bên dưới nhà thờ, có thứ gì đó đãcảm nhận được sựcó mặt của tôi. Tôi đáp lại nó bằng mộttiếng thìthầm, sựxao động nhẹgợn lên dưới chân tôi, mộttiếng thở dài xác nhận – và rồi nó biến mất. Nơi này có sức mạnh – loại hấp dẫn khôngthể cưỡng lại được đối với phù thủy.

Đẩy mũ trùm đầu ra sau, tôi chầm chậm bao quát những người mua mua bán bán trong sân nhà thờ Thánh Paul. yêutinh, phù thủy và ma cà rồng thoáng gây sựchú ý trênđường tôi đi, nhưng có quá nhiều hoạt động xung quanh khiến tôi khôngthể nổi bật. Tôi cần mộtvị trí kín đáo hơn.

Tôi tiếp tục điqua mạn bắc nhà thờ và vòng sang phía đông. Tiếng ồn ào tăng lên. Ở đây, tất cả sựchú ý dồn cả vào mộtngười đàn ông ở trênbục giảng kinh ngoài trời, được nâng cao hẳn lên bên dưới cái mái che. Vì thiếu hệ thống âmthanh bằng điện nên người đàn ông này giữ cho các thính giả của mình tập trung chú ý bằng việc hét lớn, làm những cử chỉ cường điệu, và gợi lên hình ảnh về lửa và lưu huỳnh.

mộtphù thủy khôngthể đương đầu với nhiều điều quỷ quái và đáng nguyền rủa như thế. Trừ phi tôi thậtsựlàm ra thứ gì đó đáng ngờ mộtcách nguy hiểm, bất cứ phù thủy nào phát hiệnra tôi cũng sẽnghĩ tôi chẳng là gì ngoài mộtsinh vật khác người đira ngoài mua sắm. Tôi nén tiếng thở dài thất vọng. Kế hoạch dường như khôngthể thất bại trong chính sựđơn giản mộc mạc của nó. Ở khu Blackfriars khôngcó phù thủy. Nhưng ở đây, tại nhà thờ Thánh Paul, có rất nhiều. Và sựhiệndiện của Pierre sẽngăn trở bất cứ sinh vật khác người tò mò nào có thể tiếp cận tôi.

“Ở yên đây và đừng di chuyển,” tôi ra lệnh, ném cho anhta mộtcái nhìn nghiêm khắc. Cơ hội thu hút được ánh mắt của mộtphù thủy thân thiện có thể tăng lên nếu anhta khôngđứng bên cái vẻ bất hợp tác tỏa ra từ ma cà rồng. Pierre dựa vào cây cột chống thẳng tắp của mộtquầy sách và dán chặt mắt vào tôi khôngbình luận gì. Tôi hăng hái tiến vào đám đông dưới chân cây thánh giá của Paul, nhìn từ trái sang phải như thể đangtìm kiếm người bạn lạc mất. Tôi đợi cái nhoi nhói râm ran của phù thủy. Họ ở đây. Tôi có thể cảm thấy họ.

“Bà Roydon phải không?” mộtgiọng nóiquen thuộc cất tiếng gọi. “Điều gì đưa côđến đây vậy?”

Gương mặt hồng hào của George Chapman ló ra giữa bả vai của hai quý ông dáng vẻ khắc khổ đanglắng nghe người thuyết giáo đổ lỗi tất cả bệnh tật trênthế giới cho mưu đồ xấu xa của người Thiên Chúa giáo và những thương nhân phiêu lưu mạo hiểm.

khôngtìm được phù thủy nào cả, nhưng thành viên của Bè lũ Bóng đêm thìnhư thường lệ, có ở khắp mọi nơi.

“Tôi đangđitìm mực. Và xi gắn thư.” Tôi càng nhắc lại câu này nhiều lần, nó nghe càng có vẻ ngớ ngẩn.

“Vậy thìcôcần mộtnhà pha chế. đinào, tôi sẽđưa côđến gặp người của tôi.” George chìa khuỷu tay ra. “anhta khá là biết điều, đồng thời cũng giỏi nữa.”

“Để lát nữa đi, ông Chapman,” Pierre lên tiếng, hiệnra như từ hư không.

“Bà Roydon nên hưởng chút khí trời khi có cơ hội. Đám người chở thuyền nóisẽlại mưa nhanh thôi, mà bọn họ thìhiếm khi sai lắm. Hơn nữa, cửa hiệu của John Chandler chỉ ở ngay bên ngoài tường bao thôi, trênphố Chữ Thập Đỏ. Cũng chưa tới nửa dặm đường.”

Gặp George lúc này dường như chỉ là sựngẫu nhiên. Chắc chắn chúng tôi sẽđingang qua mộtphù thủy trênđường tản bộ.

“Matthew sẽkhôngphản đối chuyến đidạo của tôi với ông Chapman đâu – chắc chắn khôngkhi anhcũng đồng hành cùng tôi nữa,” tôi bảo Pierre, khoác vào cánh tay George. “Người bào chế của anhcó ở đâu đó gần bến thuyền Paul không?”

“Gần đối diện,” George đáp. “Nhưng côkhôngmuốn mua sắm ở bến thuyền Paul đâu. John Hester là nhà bào chế duy nhất ở đó, và giá cả của ông ta thìcao đến mức phi lý. Ông Chandler sẽphục vụ côtốt hơn với mức giá bằng mộtnửa.”

Tôi cho tên John Hester vào danh sách việc cần làm để dành mộtngày khác rồi khoác cánh tay George. Chúng tôi tản bộ ra khỏi sân nhà thờ Thánh Paul đến phía bắc, băng qua những ngôi nhà và khu vườn rộng lớn.

“Đó là chỗ mẹ Henry ở,” George nói, ra dấu về phía khu nhà đặc biệt đường bệ uy nghi ở phía bên trái. “anhấy ghét nơi này và sống ở khu gần nhà Matt cho tới khi Mary thuyết phục anhấy rằng nơi ăn chốn ở của anhấy khôngxứng với phẩm cách của mộtbá tước. Bây giờ anhấy đãchuyển vào sống trong ngôi nhà trênđường Strand. Mary rất hài lòng, nhưng Henry thấy nó thậtu ám, và sựẩm ướt khôngthích hợp với xương khớp của anhấy.”

Bức tường thành phố còn cách xa ngôi nhà gia đình Percy. Được xây dựng bởi những người La Mã để phòng vệ Londinium khỏi kẻ xâm lược, chúng vẫn đánh dấu đường ranh giới chính thức. Khi chúng tôi đixuyên qua Aldersgate và mộtcây cầu thấp, khônggian mở ra những cánh đồng bát ngát và nhiều ngôi nhà tụm lại quanh các nhà thờ. Tôi đưa bàn tay đeo găng lên che mũi trước mùi của vùng thôn quê này.

“Con hào quanh thành phố đấy,” George nóivới vẻ tiếc nuối, ra hiệu về phía con sông bùn đặc quánh ngay bên dưới chân chúng tôi. “Chao ôi, nó là lối điduy nhất đấy. Chúng ta sẽcó bầu khôngkhí tốt hơn nhanh thôi.” Tôi quét đôi mắt mọng nước và chân thành hy vọng như vậy.

George hướng tôi đidọc theo con đường rộng rãi đủ chỗ cho xe ngựa, xe thùng chở đầy thức ăn, và thậm chí cả mộtđội gia súc có sừng điqua. Trong khi tản bộ, anhta trò chuyện về chuyến viếng thăm với nhà xuất bản của mình, William Ponsonby. Chapman bị sốc vì tôi khôngnhận ra cái tên này. Tôi biết rất ít về việc buôn bán sách thời đại Elizabeth nên vội kéo anhta ra khỏi chủ đề này. George vui vẻ tán chuyện về nhiều nhà viết kịch mà Ponsonby đãlàm cho mất mặt, bao gồm cả Kit. Ponsonby thích làm việc với thể loại văn học nghiêm túc, và bộ cứng các tác giả của ông ta quả thậtcó tiếng tăm lẫy lừng: Edmund Spenser, nữ bá tước Pembroke, Philip Sidney.

“Ponsonby cũng sẽxuất bản tập thơ của Matt, nhưng anhấy lại từ chối.” George lắc đầu khó hiểu.

“Thơ của anhấy ư?” Tôi thở gấp bất ngờ trước tin này. Tôi biết Matthew ngưỡng mộ thơ ca, nhưng khôngbiết anhấy còn sáng tác nữa.

“Đúng thế. Matt khăng khăng những vần thơ của anhấy chỉ vừa mắt bạn bè mà thôi. Chúng tôi đều thích khúc bi ca của anhấy viết cho anhtrai Mary, Philip Sidney. ‘Nhưng đôi mắt, vành tai và từng ý nghĩ/ Có chăng giờ chỉ ngập tràn những điều tuyệt mỹ.’” George mỉm cười. “Đó là tác phẩm tuyệt diệu. Nhưng Matthew khôngmuốn xuất bản và than phiền rằng nó chỉ dẫn đến ý kiến bất đồng và thiếu cân nhắc mà thôi.”

Bất chấp căn phòng thí nghiệm hiệnđại của anh, Matthew vốn là mộtông lão cổ hủ với sở thích về đồng hồ cổ và xe ô tô cổ điển. Tôi mím môi để khôngbật cười trước bằng chứng mới nhất về chủ nghĩa cổ điển của anh. “Những vần thơ của anhấy viết về cái gì?”

“Phần lớn về tình yêuvà tình bạn, mặc dù gần đây anhấy và Walter vẫn trao đổi những vần thơ về... mấy chủ đề u ám hơn. Họ dạo này dường như suy nghĩ vượt quá cả tư duy đơn thuần.”

“Đen tối hơn ư?” Tôi cau mày.

“anhấy và Walter thường khôngchấp nhận những điều xảy ra xung quanh họ,” George hạ giọng nói, thoáng đưa mắt lướt qua gương mặt khách qua đường.

“Có vẻ hơi thiếu kiên nhẫn – đặc biệt là Walter – và thường buộc tội dối trá cho những người có địa vị quyền lực. Đây là mộtxu hướng nguy hiểm.”

“Buộc tội nóidối,” tôi lẩm bẩm nói. Có mộtbài thơ nổi tiếng nhan đề “Lời dối trá.” Đó là bài thơ giấu tên, nhưng được cho là của Walter Raleigh. “Hãy nóivới quan tòa rằng nó rực sáng./ Và nó sáng như gỗ mục ư?”

“Vậy là Matt đãchia sẻ những vần thơ của anhấy với côrồi.” George thở dài mộtlần nữa.

“anhấy tìm cách truyền đạt xúc tích chỉ trong vài câu chữ trọn vẹn cảm xúc và ý tứ. Đó là mộttài năng mà tôi ghen tỵ.”

Mặc dù bài thơ này chẳng xa lạ gì, nhưng mối quan hệ giữa Matthew với nó thìkhôngthế. Nhưng còn rất nhiều thời gian vào các buổi tối phía trước để tôi truy tìm năng lực văn chương của đức phu quân nhà mình. Tôi buông lơi chủ đề này và lắng nghe trong khi George biểu đạt ý kiến của bản thân về việc liệu các nhà văn bây giờ có cần xuất bản quá nhiều để sinh kế, và sựcần thiết phải có những người biên tập bản in tử tế để hạn chế lỗi trong các quyển sách in.

“Đó là cửa hiệu của Chandler,” George nói, chỉ về chỗ mấy con đường giao nhau nơi mộtcây thánh giá xộc xệch nằm trênmộtcái bệ được nâng cao lên so với mặt đường. mộtđám choai choai đangbận bịu đập vỡ viên sỏi cuội xù xì ra khỏi cái bệ. Chẳng cần là phù thủy cũng có thể tiên đoán được viên đá sẽbắn xuyên qua cửa sổ của mộtcửa hiệu.

Càng đến gần nơi kinh doanh buôn bán của nhà bào chế dược này, tôi càng cảm thấy khôngkhí lạnh lẽo hơn. Khi ở nhà thờ Thánh Paul, có mộtluồng sức mạnh khác, nhưng bầu khôngkhí nghèo khổ ngột ngạt thìlơ lửng quanh những khu vực lân cận. mộttòa tháp cổ đổ nát ở mạn phía bắc con đường, và những ngôi nhà xung quanh nó trông như thể chỉ cần cơn gió mạnh là có thể cuốn chúng điluôn. Hai thanh niên lê bước tới gần hơn, đưa mắt nhìn chúng tôi với vẻ thích thú, cho tới khi tiếng rít trầm trầm từ Pierre ngăn chúng bám theo.

Cửa hiệu của John Chandler hòa hợp mộtcách hoàn hảo với bầu khôngkhí theo phong cách Gothic của khu vực lân cận. Nó tối tăm, có mùi hăng hăng và rối tinh rối mù. mộtcon cú tiêu bản treo lủng lẳng từ trần nhà xuống, hàm răng của sinh vật bất hạnh nào đó bị đóng đinh trênsơ đồ mộtcơ thể tứ chi bị cứa đứt, gãy nát, và bị đâm xuyên qua bằng vũ khí. Cái dùi thợ mộc thìcắm vào con mắt bên trái của sinh vật đáng thương này.

mộtngười đàn ông cúi lom khom hiệnra từ phía sau bức rèm, chùi hai bàn tay lên ống tay áo của chiếc áo khoác đãbạc màu. Nó gần giống chiếc áo dài mặc đihọc của các sinh viên ở Oxford hay Cambridge và cũng nhàu nát. Đôi mắt nâu sáng kiên định bắt gặp mắt tôi, làn da tôi râm ran cùng với sựnhận dạng rõràng. Chandler là phù thủy. Sau khi băng ngang qua gần như cả thành London, tôi cuối cùng cũng tìm thấy người của mình.

“Đường phố xung quanh chỗ ông đangngày càng trở nên nguy hiểm sau mỗi tuần đấy, ông chủ Chandler.” George chỉ ra ngoài cửa về phía băng nhóm choai choai đanglởn vởn gần đó.

“Đám nhóc đó đúng là hoang dã,” Chandler nói. “Tôi có thể làm gì cho ông hôm nay, ông Chapman? Ông cần thêm thuốc bổ nữa à? Bệnh đau đầu của ông lại tái phát ư?”

George liệt kê chi tiết các triệu chứng cũng như cơn đau của anhta. Chandler thỉnh thoảng thìthầm đầy cảm thông và kéo quyển sổ cái lại gần. Mấy người đàn ông mải mê với cuốn sổ cho tôi cơ hội quan sát xung quanh.

Hiệu bào chế thuốc thời Elizabeth rõràng là mộtcửa hàng tổng hợp thời kỳ này, mộtkhônggian nhỏnhét đầy tới tận xà nhà các hàng hóa. Những chồng bảng minh họa sống động, như mộtbức hình người đàn ông bị thương được đóng đinh trêntường, vài lọ mứt trái cây. Các cuốn sách cũ đặt trênbàn, cùng mấy tựa đề có vẻ mới hơn. mộtloạt bình lọ bằng sành cung cấp cho căn phòng mờ tối chút ánh sáng loang loáng, tất cả đều được dán nhãn với tên các loại gia vị và thảo dược. Những mẫu vật từ thế giới động vật được trưng bày khôngchỉ là tiêu bản con cú và cái xương quai hàm kia mà còn có loài vật gặm nhấm già nua bị treo ngược lên đằng đuôi. Tôi phát hiệnthấy cả mực, bút lông, và các cuộn dây buộc nữa.

Cửa hiệu được sắp xếp theo từng nhóm chuyên đề lỏng lẻo. Mực ở gần bút lông cùng sách cũ, bên dưới con cú già thông thái. Những con chuột treo phía trênđám lọ sành dán nhãn “bả chuột”, bên cạnh là mộtquyển sách hứa hẹn khôngchỉ giúp bạn bắt cá mà còn “các dụng cụ và bẫy lặt vặt khác để bắt chồn hôi, chim ó, loài gặm nhấm, chuột, và tất cả các loài chim, thú gây hại khác.” Tôi vẫn đangbăn khoăn tìm cách loại bỏ những vị khách khôngmời trêngác mái. Các kế hoạch chi tiết trong cuốn sách mỏng này vượt quá khả năng làm việc vặt của tôi, nhưng tôi đãtìm thấy người có thể thực hiệnchúng. Nếu vài con chuột trong cửa hàng của Chandler là chỉ dẫn gợi ý, thìnhững chiếc bẫy này chắc chắn hiệu quả rồi.

“Xin thứ lỗi, thưa bà,” Chandler lầm bầm, với qua người tôi. Tò mò, tôi quan sát ông ta lấy con chuột tới bàn bào chế rồi cắt lát những cái tai của nó bằng mộtsựchính xác tinh tế.

“Chúng để làm gì vậy?” Tôi hỏi George.

“Bột tai chuột là món hiệu quả chống lại mụn cơm,” anhta giải thích bằng vẻ nghiêm túc trong khi Chandler thành thạo sử dụng cái chày giã.

nhẹnhõm vì khôngphải chịu đựng chứng bệnh đặc biệt này, tôi lơ đãng đưa mắt nhìn lên phía trêncon cú canh gác cho khu văn phòng phẩm. Tôi tìm thấy mộtlọ mực đỏ, đậm đặc.

Người bạn wearth của bà sẽkhôngđánh giá cao việc mang cái lọ đó về nhà đâu, thưa bà. Nó được làm từ máu diều hâu và được dùng để viết bùa tình yêuđấy.

Vậy là Chandler có khả năng nóitruyền âmbằng tâm thức. Tôi trả lọ mực lại chỗ cũ rồi cầm lên cuốn sách mỏng như tai chó. Hình ảnh trêntrang đầu tiên miêu tả mộtcon sói tấn công mộtcon chim nhỏvà người đàn ông đangbị tra tấn khủng khiếp rồi bị hành hình. Nó gợi cho tôi nhớ đến những tờ báo khổ nhỏở quầy tính tiền trong các cửa hành bách hóa hiệnđại. Khi lật qua trang đó, tôi giật mình đọc được về người có tên Stubbe Peter, kẻ này xuất hiệntrong hình dáng chó sói và uống máu đàn ông, đàn bà, trẻ con cho tới chết. khôngchỉ có phù thủy Scotland đangnằm trong tầm mắt công chúng. Vậy là cả ma cà rồng cũng thế.

Mắt tôi lướt nhanh qua trang sách. Tôi nhẹnhõm phát hiệnStubbe sống ở vùng sâu vùng xa của nước Đức. Nỗi lo lắng trở lại khi tôi thấy người chú của mộttrong các nạn nhân điều hành xưởng ủ bia nằm giữa nhà chúng tôi và lâu đài Baynard. Tôi thở hắt ra trước các chi tiết khủng khiếp của các vụ giết chóc, cũng như độ dài danh sách những người sẽđiđối phó với các sinh vật này. Ở đây Stubbe Peter được mô tả như mộtphù thủy, và hành vi lạ lùng của hắnbị quy cho là có hiệp ước với quỷ dữ mới khiến hắncó thể biến hình và thỏa mãn khẩu vị khát máu khôngbình thường như thế. Nhưng khả năng nhiều hơn cả là gã đàn ông này vốn là ma cà rồng. Tôi luồn cuốn sách mỏng ấy xuống bên dưới mộtcuốn sách khác của mình và tiến tới quầy tính tiền.

“Bà Roydon có nhu cầu mua vài món đồ,” George giải thích với nhà bào chế dược khi tôi lại gần.

Tâm trí Chandler thận trọng chuyển sang khoảng trắng khi tên tôi được nhắc tới.

“Vâng,” tôi từ tốn nói. “Mực đỏ, nếu ông có nó. Và xà bông thơm để tắm.”

“Được ạ.” Ông pháp sư tìm kiếm trong mấy cái bình vại nhỏbằng thiếc. Khi tìm được đúng thứ cần, ông ta đặt nó lên quầy. “Và bà cần xi gắn thư phù hợp với mực nữa phải không?”

“Bất cứ thứ gì ông có cũng được cả, ông Chandler.”

“Tôi thấy là ông có mộtcuốn sách của ông Hester,” George nói, cầm lên mộtcuốn sách ở gần đó. “Tôi đãnóivới bà Roydon rằng mực của ông tốt ngang với nhà Hester và giá cả chỉ bằng mộtnửa.”

Nhà bào chế dược mỉm cười yếu ớt trước lời khen ngợi của George và đặt vài thỏi sáp màu hồng nhạt cùng hai bánh xà bông mùi thơm ngọt ngào lên bàn, bên cạnh lọ mực của tôi. Tôi thả cuốn hướng dẫn khống chế loài vật gây hại và cuốn sách mỏng về ma cà rồng Đức lên trênmặt bàn. Mắt Chandler ngước lên nhìn vào mắt tôi. Trong đó có sựcảnh giác.

“Đúng thế,” Chandler nói, “nhà in trênđường đicó để lại vài bản cho tôi, nó nóivề mộtvấn đề y học.”

“Cái đó cũng sẽkhiến bà Roydon quan tâm đây,” George nói, ném phịch nó lên chồng sách của tôi. Tôi thắc mắc, khôngphải là lần đầu tiên, làm thế nào con người có thể quên đinhững gì đangdiễn ra quanh họ được.

“Nhưng tôi khôngchắc chuyên luận này thích hợp cho mộtphu nhân…” Chandler bỏ lửng câu nói, và nhìn vào chiếc nhẫn cưới của tôi đầy ngụ ý.

Câu trả lời nhanh nhảu từ George dìm chết lời đáp trả bằng im lặng của tôi. “Ồ, chồng bà đây sẽkhôngbận tâm đâu. Bà ấy là người nghiên cứu giả kim thuật.”

“Tôi sẽlấy nó,” tôi quả quyết trả lời.

Trong khi Chandler gói những món hàng, George hỏi ông ta liệu có thể giới thiệu mộtngười làm kính đeo

mắt không.

“Nhà xuất bản của tôi, ông Ponsonby, lo ngại đôi mắt tôi sẽkhôngchịu nổi trước khi bản dịch Homer của tôi hoàn chỉnh,” anhgiải thích vẻ tự đắc. “Tôi có mộtđơn thuốc từ người hầu của mẹ tôi, nhưng nó khônghẳn là phương pháp điều trị.”

Nhà bào chế nhún vai. “Phương thuốc chữa của các bà vợ già đôi khi cũng giúp ích, nhưng của tôi thìđáng tin hơn. Tôi sẽgửi qua thuốc đắp làm từ trứng trắng và nước hoa hồng. Ngâm ướt mấy miếng vải lanh trong đó và đắp lên mắt.”

Trong khi George và Chandler mặc cả giá cho thứ thuốc ấy rồi dàn xếp việc giao hàng đến nơi, Pierre thu thập các túi hàng và đứng bên cửa ra vào.

“Tạm biệt, bà Roydon,” Chandler cúi đầu chào.

“Cảm ơn ông vì sựtrợ giúp, ông Chandler,” tôi đáp. Tôi mới đến thành phố và đangtìm mộtphù thủy giúp đỡ tôi.

“Rất hân hạnh được phục vụ bà,” ông ta êm ái nói, “mặc dù vẫn còn có các nhà bào chế dược tuyệt vời khác ở Blackfriars.” London là chốn nguy hiểm. Hãy cẩn thận với người bà yêucầu trợ giúp.

Trước khi tôi kịp hỏi nhà bào chế dược làm thế nào ông ta biết nơi tôi sống, thìGeorge đãdẫn tôi ra ngoài đường cùng với lời chào tạm biệt vui vẻ. Pierre ở quá gần phía sau đến mức tôi thỉnh thoảng có thể cảm thấy hơi thở lành lạnh từ anhta.

sựtiếp xúc bằng ánh mắt là khôngthể nào nhầm được trong hành trình chúng tôi trở lại thành phố. mộtlệnh báo động đãđược phát ra khi tôi còn ở trong cửa hiệu của Chandler, và tin tức về mộtphù thủy kỳ lạ đangở gần đãlan tràn khắp khu vực lân cận. Cuối cùng tôi đãđạt được mục đích của mình cho buổi chiều hôm nay. Hai phù thủy bước ra trênthềm nhà họ, hai cánh tay khoác vào nhau, chăm chú dò xét tôi với thái độ thù địch nhức nhối. Bọn họ trông giống nhau từ gương mặt đến thân hình tới mức tôi tự hỏi liệu đó có phải là mộtcặp song sinh.

“Wearth,” mộtngười lầm bầm nói, nhổ nước miếng về phía Pierre và xỉa các ngón thành dấu hiệu chống lại ác quỷ.

“đinào, thưa bà. Trời đãmuộn rồi,” Pierre nói, các ngón tay siết lấy cẳng tay tôi.

Mong muốn của Pierre là mang tôi ra khỏi St.Giles nhanh nhất có thể, còn mong muốn của George là mộtcốc rượu, nên khiến cho chuyến trở về Blackfriars của chúng tôi nhanh hơn lúc đira. Khi chúng tôi đãan toàn trở về Hươu Đực và Vương Miện, vẫn chẳng có dấu hiệu nào của Matthew cả, Pierre lại biến mất để đitìm anh. Ngay sau đó Françoise nhấn mạnh về giờ giấc đãmuộn thế nào và tôi cần phải nghỉ ngơi. Chapman bắt được tín hiệu để nóilời từ biệt.

Françoise ngồi bên lò sưởi, mấy món đồ khâu vá đặt bên cạnh, và quan sát cửa ra vào. Tôi mang ra dùng thử lọ mực mới của mình bằng việc đánh dấu các mục trong danh sách mua sắm và thêm vào “bẫy chuột”. Tôi quay sang bên cạnh cuốn sách của John Hester. Trang giấy trắng gấp lại mộtcách kín đáo che giấu nội dung dâm ô tục tĩu. Nó liệt kê các phương pháp chữa bệnh hoa liễu, hầu hết đều liên quan tới nồng độ độc hại của thủy ngân. Chả trách Chandler đãphản đối bán mộtbản in cuốn sách này cho phụ nữ đãcó chồng. Tôi vừa mới bắt đầu đọc chương hấp dẫn thứ hai thìnghe thấy tiếng rì rầm nóichuyện vọng ra từ phòng làm việc của Matthew. Françoise miệng mím chặt, lắc đầu.

“Tối nay ngài ấy sẽcần thêm nhiều rượu hơn số chúng ta có trong nhà,” côta nhận xét và hướng về phía cầu thang cùng chiếc bình khôngđể cạnh cửa ra vào.

Tôi đitheo âmthanh giọng nóicủa chồng mình. Matthew vẫn ở trong phòng làm việc, đangcởi quần áo và ném chúng vào lửa.

“hắnlà mộtgã đàn ông ma quỷ, milord,” Pierre nóidứt khoát, nới lỏng thanh gươm của Matthew.

“‘Ma quỷ’ khôngthực thi cái công lý ma quỷ đó. Thanh gươm làm điều đó còn chưa được đúc ra đâu. Sau ngày hôm nay ta sẽthề trước quan tòa bản thân hắnchính là ác quỷ.” Những ngón tay thon dài của Matthew nới lỏng dây buộc chiếc quần chẽn. Chúng được thả rơi xuống sàn nhà, rồi anhcúi người nhặt lên. Chiếc quần bay qua khôngtrung rơi vào lò sưởi, nhưng khôngđủ nhanh để che giấu những vết máu lấm chấm. mộtmùi ẩm mốc của đá ướt, tuổi tác và rác bẩn gợi lên trong tôi những hồi ức bất chợt về lần bị giam giữ ở La Pierre. Thức ăn đãdâng lên trong cổ họng tôi. Matthew xoay người lại bổ nhào đến.

“Diana.” anhhít vào thấy nỗi đau khổ của tôi bằng mộthơi thở thậtsâu và xé toạc chiếc áo sơ mi qua đầu trước khi bước qua đôi bốt bị vứt bỏ rồi đến bên cạnh tôi chẳng mặc gì ngoài chiếc quần đùi vải lanh. Ánh lửa bập bùng hắt trênvai anh, và mộttrong nhiều vết sẹo – nó dài và sâu, ngay phía trênchỗ hai bả vai giao nhau – chập chờn ẩnhiện.

“anhcó bị thương không?” Tôi vật lộn thốt ra lời từ cuống họng thít lại của mình, mắt tôi dán chặt vào bộ quần áo đangcháy trong lò sưởi. Matthew nhìn theo ánh mắt tôi, khẽ chửi thề.

“Đó khôngphải máu của anhđâu.” Chuyện Matthew có máu của kẻ khác trênngười quả là rất khôngthoải mái. “Nữ hoàng ra lệnh cho anhhiệndiện khi mộttù nhân bị… thẩm vấn.” Chỗ hơi ngập ngừng đó nóivới tôi rằng “tra tấn” chính là từ anhđangtránh nóiđến. “Để anhtắm rửa đã, rồi sẽđến dùng bữa tối cùng em.” Lời lẽ của Matthew ấm áp, nhưng anhtrông có vẻ mệt mỏi và tức giận. Và anhcòn thận trọng khôngchạm vào tôi nữa.

“anhđãở dưới hầm ngầm.” Cái mùi ấy khôngnhầm được.

“anhở chỗ Tháp.”

“Còn tù nhân của anh– hắnchết rồi à?”

“Đúng.” Bàn tay anhvuốt qua mặt. “anhđãhy vọng mình đến đủ sớm để ngăn chặn chuyện đó – lần này – nhưng anhđãtính toán nhầm thủy triều. Tất cả những gì anhcó thể làm, mộtlần nữa, là kiên quyết để cho sựđau đớn của ông ta chấm dứt.”

Matthew đãtrải qua cái chết của người đàn ông kia mộtlần trước đây. Hôm nay anhcó thể ở yên trong nhà và khônglàm mình bận tâm với linh hồn mất mát trong tòa Tháp kia. mộtsinh vật thấp kém hơn sẽlàm thế. Tôi vươn tay ra chạm vào anh, nhưng anhtránh đi.

“Nữ hoàng sẽbiết chuyện anhche giấu khi bà ta phát hiệnra người đàn ông kia chết trước khi tiết lộ bí mật của mình, nhưng anhkhôngquan tâm nữa. Như hầu hết loài người, Elizabeth thấy việc ngoảnh mặt làm ngơ khi thích hợp sẽdễ dàng hơn,” anhnói.

“Ông ta là ai?”

“mộtphù thủy,” Matthew thẳng thắn nói. “Hàng xóm tố cáo ông ta vì có mộtngười nộm tóc đỏ. Bọn họ sợ rằng đó là hình ảnh của nữ hoàng. Còn nữ hoàng thìlo sợ hành vi của các phù thủy Scotland. Agnes Sampson và John Fian, đangkhuyến khích phù thủy anhhành động chống lại bà. không, Diana.” Matthew ra dấu cho tôi ở yên tại chỗ khi tôi bước tới định an ủi anh. “Đó là mức gần nhất em được tiếp cận với tòa Tháp và những gì xảy ra ở nơi đó. Hãy đến phòng khách đi. anhsẽđến với em nhanh thôi.”

thậtkhó mà bỏ mặc anh, nhưng tôn trọng yêucầu là tất cả những gì tôi có thể làm cho anhvào lúc này. Rượu, bánh mỳ, và pho mát đãđợi sẵn trênbàn cũng khônglàm ngon miệng, nhưng tôi lấy mộtmẩu bánh sữa đãmua buổi sáng và chậm rãi ăn cho tới khi chỉ còn vài mẩu vụn.

“Em khôngthấy ngon miệng,” Matthew lẻn vào phòng, lặng lẽ như mộtcon mèo, anhtự rót rượu cho mình và uống mộthơi dài rồi lại rót đầy cốc.

“anhcũng vậy mà,” tôi nói. “anhkhôngăn uống đều đặn.” Gallowglass và Hancock vẫn đến rủ anhtham gia cùng họ trong những chuyến đisăn đêm, nhưng Matthew luôn từ chối.

“anhkhôngmuốn nóivề chuyện đó. Thay vì thế kể cho anhnghe mộtngày của em đi.” Hãy giúp anhquên đi. Những lời Matthew khôngnóira thìthầm vang khắp căn phòng.

“Bọn em đimua sắm. Em đãnhận cuốn sách anhđặt hàng từ chỗ Richard Field và gặp vợ ông ấy, Jacqueline.”

“À.” Nụ cười của Matthew rộng hơn, và mộtít căng thẳng rời khỏi khóe miệng anh. “Bà Field mới. côta sống lâu hơn người chồng đầu và giờ có được người chồng thứ hai sau mộtđiệu nhảy may mắn. Em có gặp Shakespeare không? anhta đangở cùng nhà Field đấy.”

“không.” Tôi bổ sung thêm các mẩu vụn cho cái đống vụn bánh đangngày càng nhiều lên ở trênbàn. “Em điđến nhà thờ.” Matthew hơi nhoài người tới trước. “Pierre đicùng em,” tôi vội nói, thả miếng bánh sữa lên bàn. “Và em tình cờ gặp George.”

“khôngnghi ngờ gì anhchàng đanglảng vảng quanh khu Đầu Bishop đợi William Ponsonby để nóiđiều tốt đẹp cho mình.” Hai vai Matthew hạ xuống khi anhthầm cười khe khẽ.

“Em chưa bao giờ đến Đầu Bishop,” tôi thú nhận. “George đangở chỗ cây thánh giá của Paul, nghe mộtbài thuyết giáo.”

“Đám đông tụ tập để nghe mấy kẻ thuyết giảng đó khôngthể lường trước được,” anhnóikhẽ khàng. “Pierre biết rõhơn cả là khôngđược để em nấn ná chỗ đó mà.” Như bằng phép thuật, người hầu của anhxuất hiệnngay lập tức.

“Bọn em khôngở lâu. George đưa em tới chỗ nhà bào chế dược của anhấy. Em mua vài cuốn sách nữa và ít đồ dùng. Xà bông. Xi gắn thư. Mực đỏ.” Tôi mím chặt môi vào nhau.

“Người bào chế dược của George sống ở Cripplegate.” Giọng Matthew trở nên lạnh lùng. anhngước mắt nhìn Pierre. “Khi dân chúng London than phiền về tình trạng tội phạm, quận trưởng cảnh sát đãtới đó và bắt từng người trông có vẻ lười biếng hay khác thường. Ông ta đãcó mộtkhoảng thời gian dễ chịu với nó.”

“Nếu ngài quận trưởng nhắm vào Cripplegate, thìtại sao lại có nhiều sinh vật khác người đến thế ở Barbican Cross còn rất ít thấy ở Blackfriars?” Câu hỏi khiến Matthew kinh ngạc.

“Khu Blackfriars từng mộtthời là mảnh đất thiêng của người theo Cơ đốc giáo. yêutinh, phù thủy và ma cà rồng có thói quen sống ở nơi nào mộtthời gian dài trước đó thìsẽkhôngdi chuyển trở lại. Tuy nhiên khu Barbican Cross được đặt trênvùng đất nơi là nghĩa trang của người Do Thái hàng trăm năm trước. Sau khi người Do Thái bị đuổi ra khỏi nước anh, chính quyền thành phố đãdùng khu nghĩa địa khôngđược thừa nhận này cho tội phạm, những kẻ phản bội và người bị rút phép thông công. Con người coi nó bị ma ám và tránh chỗ đó.”

“Vậy nó là nỗi bất hạnh của người chết, em cảm thấy thế, chứ khôngphải là người đangsống.” Lời lẽ buột ra trước khi tôi kịp dừng lại. Hai mắt Matthew nheo lại.

Cuộc nóichuyện của chúng tôi chẳng cải thiện được tâm trạng gay gắt của anh, và cảm giác khôngthoải mái phía tôi thìtăng lên từng phút một. “Jacqueline gợi ý về John Hester khi em hỏi thăm về người bào chế dược, nhưng George nóingười của anhấy cũng giỏi ngang thế mà khôngđắt bằng. Em đãkhônghỏi rõvề khu vực xung quanh chỗ đó.”

“Thực tế John Chandler khôngấn thuốc phiện cho khách hàng của mình giống như Hester, đối với anhquan trọng hơn là giá cả hợp lý của ông ta. Nhưng anhkhôngmuốn em ở Cripplegate. Lần sau em cần đồ dùng viết lách thìhãy bảo Pierre hoặc Françoise kiếm về cho nhé. Nhưng tốt hơn cả là đến thăm hiệu hàng bào chế dược có ba cửa ngay trênHẻm Water ở đối diện đây này.”

“Bà Field khôngnóivới madame là có mộtnhà bào chế dược ngay ở Blackfriars này. Mới vài tháng trước, ông de Laune và Jacqueline khôngđồng ý với nhau về phương pháp chữa trị tốt nhất cho bệnh bạch hầu của đứa con trai lớn nhà bà ấy,” Pierre rì rầm nóinhư mộtlời giải thích.

“Ta khôngquan tâm liệu Jacqueline và de Laune có chĩa gươm vào nhau ngay giữa giáo đường Thánh Paul hay không. Diana sẽkhôngdạo chơi khắp cả thành phố như thế.”

“khôngchỉ có Cripplegate là nguy hiểm,” tôi nói, đẩy quyển sách mỏng về ma cà rồng Đức ngang qua bàn. “Em mua mộtcuốn chuyên luận của Hester về bệnh hoa liễu từ chỗ Chandler, và mộtcuốn sách về việc đặt bẫy thú. Cái này cũng được bán nữa.”

“Em mua cái gì cơ?” Matthew sặc rượu, sựchú ý của anhdán vào cuốn sách sai trái.

“Quên chuyện về Hester đi. Cuốn sách mỏng này kể câu chuyện về mộtgã đàn ông thông đồng với quỷ biến đổi thành sói và uống máu. mộttrong những người đàn ông có liên quan là hàng xóm của chúng ta, ông chủ xưởng ủ bia cạnh lâu đài Baynard ấy.” Tôi gõ gõ ngón tay lên quyển sách mỏng để nhấn mạnh.

Matthew kéo những trang giấy lỏng lẻo về phía mình. Hơi thở của anhngừng lại khi đến phần quan trọng. anhgiao nó cho Pierre, anhchàng cũng nhanh chóng chú mục nghiên cứu nó.

“Stubbe là ma cà rồng, đúng không?”

“Phải. anhkhôngbiết tin tức về cái chết của hắnlại truyền đixa thế này. Kit thường hay kể cho anhnghe những chuyện ngồi lê đôi mách ở vỉa hè và báo chí nên bọn anhcó thể cập nhật bao quát nếu cần thiết. khônghiểu thế nào anhta lại bỏ sót chuyện này.” Matthew bắn mộtcái nhìn dữ tợn vào Pierre. “Hãy đảm bảo chắc chắn có người được phân công giải quyết chuyện này, và đừng để Kit biết.” Pierre nghiêng đầu tỏ vẻ đãhiểu.

“Vậy các truyền thuyết về người sói này chỉ là những nỗ lực đáng thương hơn của loài người nhằm chối bỏ nhận thức về ma cà rồng.” Tôi lắc đầu.

“Đừng bận tâm quá về chuyện đó, Diana. Bọn họ hiệngiờ đangtập trung vào phù thủy. Rồi sẽđến lượt yêutinh trong mộttrăm năm tới chẳng hạn, hãy biết ơn cuộc cải cách ở các nhà thương điên. Sau đó, loài người sẽxoay vòng đến ma cà rồng, và phù thủy sẽchẳng còn là gì hơn ngoài mộtcâu chuyện cổ tích xấu xa để dọa trẻ con.” Matthew trông có vẻ lo lắng, bất chấp lời nóira.

“Hàng xóm bên cạnh chúng ta đangbận tâm về người sói, chứ khôngphải phù thủy. Và nếu anhcó thể nhầm lẫn mộtchuyện, thìem muốn anhthôi lo lắng về em đivà hãy bắt đầu chăm sóc cho chính mình ấy. Hơn nữa, giờ cũng khôngcòn lâu nữa đâu trước khi mộtphù thủy gõ cửa nhà chúng ta.” Tôi bám lấy sựthậthiển nhiên sẽcó chuyện nguy hiểm với Matthew nếu còn tiến xa hơn nữa để tìm kiếm mộtphù thủy. Đôi mắt chồng tôi thoáng nhìn cảnh cáo, nhưng miệng vẫn mím chặt cho tới khi cơn giận dữ được kiểm soát.

“anhbiết em đangrất mong muốn được độc lập, nhưng lần tới em quyết định tự tay xử lý vấn đề thìhãy hứa là em sẽthảo luận nó với anhtrước đã.” Câu trả lời của anhdịu dàng hơn tôi mong đợi.

“Chỉ khi anhhứa sẽlắng nghe. anhđangbị theo dõi đấy, Matthew. Em chắc chắn điều đó, và cả Mary Sidney cũng thế. anhcứ chăm lo công vụ của nữ hoàng và rắc rối ở Scotland, hãy để em lo chuyện này.”

Khi anhmở miệng để định đàm phán thêm nữa, tôi lắc đầu.

“Nghe em đi. mộtphù thủy sẽđến đây. Em hứa đấy.”